Nhận biết và biện pháp can thiệp bệnh Derzsy’s ở Vịt, Ngan

Derzsy’s là bệnh do Parvovirus gây ngắn mỏ, rụng lông, còi cọc ở Vịt – Ngan.
1. Đặc điểm và nguyên nhân
a. Lịch sử bệnh
Phát hiện lần đầu ở ngỗng con Trung Quốc năm 1956, sau đó được và Fang  (1981), Zhang (1982) nghiên cứu mô tả.
Derszy (1960 – 1970) đã phân lập virus và nghiên cứu đầy đủ về bệnh nên gọi là “Bệnh Derszy”.
Bệnh được phát hiện ở ngỗng và ngan: Ba Lan, Pháp, Tiệp khắc, CHLB Đức, Hungary, Bulgary, Hà Lan, Liên Xô Cũ (R.E. Gough, 2003)
Ngày nay, bệnh cũng thấy ở các nước châu Á, châu Phi nhập ngan và ngỗng từ các nước có lưu hành bệnh.
Ở Việt Nam: Bệnh phát hiện lần đầu gọi là “Bệnh dịch tả ngỗng” ở đàn ngỗng huyện Gia Lâm (Nguyễn Văn Hanh, 1966-1967). Theo Tô Long Thành (2005) Bệnh xuất hiện ở ngan Pháp nhập nội, làm ngan chết 90% – 100% ở Hà Nội, Quảng Ninh, Nam Định, Thái Bình, Đồng Nai… từ 1998 – 2001.
Hiện nay, bệnh này đang xuất hiện trên diện rộng ở cả ba miền của nước ta, gây ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và hiệu quả chăn nuôi vịt thịt.
b. Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh do do Parvovirus, họ Parvoviridae. Virus này không có quan hệ kháng nguyên với các Parvovirus gây bệnh ở các loài thú và người. Virus có kích thước nhỏ: 20-24nm, đề kháng Cloroform, ở 4º C tồn tại nhiều năm; sống được 2 – 3 tuần ở phân, rác chuồng trại; bị diệt ở 56º C.
Bệnh xuất hiện phổ biến ở ngan, ngỗng, vịt lai ngan, các giống vịt siêu thịt và lây lan nhanh chóng qua các đàn vịt Grimaud cùng nuôi trong trại hay nuôi ngay lứa sau đó mà không thực hiện tốt các khâu vệ sinh, tiêu độc, sát trùng chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi…
Bệnh có tác động mạnh tới  đàn vịt dưới 5 tuần tuổi và có tỷ lệ chết cao trong khoảng từ 8 đến 15 ngày tuổi. Ở ngan, ngỗng 1- 3 tuần tuổi bị bệnh viêm đường hô hấp, viêm ruột, viêm cơ tim, viêm gan…Ngan, ngỗng 2 – 3 tháng tuổi bị bệnh thể thần kinh.
Bệnh truyền dọc: do vịt ngan, ngỗng bị bệnh truyền virus qua trứng. Ngan ngỗng cái mang virus sau 3 năm.Bệnh cũng lây truyền qua đường tiêu hoá do thuỷ cầm ăn uống phải virus

2. Triệu trứng của bệnh Derszy’s
Thời gian ủ bệnh: 3 – 5 ngày. Tuỳ theo mức độ nhiễm bệnh biểu hiện qua 3 thể khác nhau: Quá cấp tính, cấp tính, á cấp tính và mạn tính.
a. Thể quá cấp tính:
Thường xảy ra ở ngan, ngỗng non 1 – 3 tuần tuổi chết đột ngột, không rõ triệu chứng.
b. Thể cấp tính:
Con vật bỏ ăn sốt cao (Tăng nhiệt (45 – 46ºC), chảy dịch mũi, nước mắt liên tục; thở khó, khẹc mũi.
Ỉa chảy, phân trắng xanh, có mùi tanh, dính bết hậu môn, nằm bệt và chết 100% sau 2 – 5 ngày.
Tỷ lệ chết ở vịt, ngan, ngỗng 2 – 3 tuần tuần tuổi có thể dưới 10%, mặc dù mức độ nhiễm bệnh có thể cao
Tỷ lệ chết còn phụ thuộc vào việc kiẻm soát các bệnh nhiễm trùng kế phát do vi khuẩn, nấm hoặc virus.
c. Thể á cấp tính:
Thể bệnh này thường gặp ở những vịt ngan già hoặc trưởng thành, xuất hiện các dấu hiệu lâm sàng kéo dài hơn:
Ban đầu con vật biểu hiện chán ăn, chảy nước và yếu cơ di chuyển miễn cưỡng.
Có dịch ở mắt và mũi. Mí mắt sưng và có màu đỏ.
Tiêu chảy phân trắng có thể thấy rõ ở nhiều loài thuỷ cầm
Lưỡi và xoang miệng phủ màng giả firbin
Con vật sống sót qua giai đoạn cấp tính có thể song sót, nhưng bệnh kéo dài hơn.
Xương giòn, dễ gãy và bại liệt
d. Thể mạn tính:
Trong đàn, có nhiều con còi cọc, mỏ ngắn, thè lưỡi, chân đứng không vững do bị dị dạng.
Mất lông (lông) quanh lưng và cổ, và đỏ da rõ rệt.
Chất lỏng ascitic có thể được tích tụ trong bụng, khiến cho những con vật đứng trong tư thế giống chim cánh cụt
Vịt phân đàn mạnh, độ đồng đều rất thấp.

3. Bệnh tích mổ khám

Mổ khám bệnh tích nhận thấy:
Cơ tim, gan, thận viêm sưng và nhạt mầu.
Xoang bụng chứa nhiều tương dịch, có khi đặc như gelatin.
Thoái hoá xương, hoại tử đầu khớp à đứng đi lại khó khan
Viêm, xuất huyết niêm mạc ruột, có fibrin, tích nước trong xoang ngực. 

4. Chẩn đoán bệnh
Chẩn đoán lâm sàng: Ngỗng ngan non (1-3 tuần tuổi) với hội chứng viêm đường hô hấp và tiêu hoá cấp, chết 100%.
Chẩn đoán virus: phân lập virus trên phôi trứng 10 – 15 ngày hoặc trên các môi trường tế bào.
Chẩn đoán miễn dịch : dùng các phương pháp trung hoà virus (VNT), phương pháp ELISA, phương pháp huỳnh quang gián tiếp (IFAT) và PCR để chẩn đoán bệnh
 
5. Biện pháp phòng và can thiệp
a. Biện pháp phòng bệnh
Phòng bệnh bằng Vacxin nhược độc tiêm vào xoang bụng cho vịt, ngan, ngỗng con một ngày tuổi, sau 21 ngày tiêm nhắc lại lần 2.
Đối với ngan, ngỗng sinh sản cần tiêm vacxin vô hoạt vào bắt đầu mùa đẻ trứng và giữa kỳ đẻ trứng. Miễn dịch kéo dài từ 6 – 8 tháng.
Phát hiện sớm ngan, ngỗng bệnh để loại khỏi đàn
Vệ sinh phòng bệnh: giữ sạch nguồn nước, thức ăn và đảm bảo chuồng trại, nơi chăn thả không bị ô nhiễm.
Giảm các yếu tố Stress với ngan, ngỗng con (điều kiện thời tiết, dinh dưỡng và thức ăn, điều kiện chăn thả…)
Không nhập ngan, ngỗng từ các khu vực có bệnh lưu hành.
b. Biện pháp can thiệp
Đây là bệnh không có hoá dược điều trị bệnh. Có thể điều trị bằng kháng huyết thanh sớm cho vịt, ngan, ngỗng bị bệnh.
Tiến hành tách lọc vịt có biểu hiện lâm sàng, chăm sóc
Sử dụng kháng thể của Sinder
Đây là sản phẩm của hãng vaccine Sinder của Trung Quốc. Cách sử dụng như sau:
Để phòng ngừa khẩn cấp:
– Vịt, ngan, ngỗng 1 ngày tuổi: tiêm 1 liều duy nhất: 0,5 ml/con;
– Vịt ngan, ngỗng từ 2-5 ngày tuổi, tiêm liều duy nhất: 0,5-0,8ml/con.
Đối với điều trị: Vịt, ngan, ngỗng bị nhiễm bệnh, liều tiêm: Vịt con: 1,0; vịt lớn: 1,5ml/con, liệu trình 1 mũi tiêm có tác dụng kéo dài 7 – 10 ngày.
Lưu ý có thể pha chung với Ceftiofur hoặc Cefotaxime để phòng bội nhiễm các bệnh bội nhiễm.



Điều trị triệu chứng
Hạ sốt: Sử dụng paracetamol hạ sốt cho toàn đàn
Xương giòn, dễ gẫy, bại chân: Lưu ý bổ sung khoáng chất, đặc biệt là Ca, P… trong quá trình can thiệp.
Trợ sức, trợ lực: Bổ sung các vitamin tổng hợp, khoáng chất, men tiêu hoá (kích thích mọc lông, sinh trưởng…)

Tác giả: Nguyễn Văn Minh, Thạch Văn Mạnh, Hà Văn Linh – Phòng Thú y Tập đoàn Mavin; Hoàng Minh Sơn, Đinh Phương Nam – Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Liên hệ tư vấn: 0975.515.383