Bại huyết là bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây lan rộng trên vịt, ngan. Bệnh gây tỷ lệ chết cao cho vật nuôi, do đó cần có các biện pháp phòng trị kịp thời để giảm thiệt hại do bệnh gây ra.
Tác nhân
Bệnh do trực khuẩn Riemerella anatipestifer gây ra. Đây là một vi khuẩn gram âm. Trong môi trường ẩm thấp và ở nền chuồng, vi khuẩn có thể sống 13 - 27 ngày, vi khuẩn dễ bị tiêu diệt bởi các thuốc khử trùng thông thường như formalin, phenol...
Đây là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây lan rộng trên vịt, ngan. Bệnh xuất hiện trên mọi lứa tuổi của vịt; vịt con dễ nhiễm hơn vịt lớn; vịt càng lớn tỷ lệ chết vì bệnh càng cao. Bệnh ít xảy ra ở ngỗng, gà tây; các loài chim nước, gà và gà lôi thỉnh thoảng có thể bị mắc bệnh. Bệnh thường ghép với bệnh E. coli, tụ huyết trùng gây tỷ lệ chết cao trên vịt, ngan.
Đường lây bệnh: Bệnh có thể lây trực tiếp hoặc gián tiếp. Bệnh lây trực tiếp qua đường hô hấp; và lây gián tiếp qua đường tiêu hóa (thức ăn, nước uống); qua các vết tổn thương trên da, đặc biệt là bàn chân.
Triệu chứng
Thể quá cấp: Vịt chết đột ngột không có dấu hiệu rõ. Thông thường tỷ lệ chết 5 - 10% nhưng có trường hợp lên tới 50 hay 100% nếu giai đoạn mắc bệnh bại huyết có kết hợp với bệnh khác.
Thể mãn tính: Mọi lứa tuổi đều có thể mắc bệnh nhưng vịt, ngan con 1 - 7 tuần tuổi dễ mắc bệnh nhất; vịt, ngan nhỏ hơn 5 tuần tuổi thường chết trong 1 - 2 ngày sau khi xuất hiện các triệu chứng lâm sàng. Thời gian nung bệnh thường 2 - 5 ngày. Tỷ lệ chết có thể đến 50%, nếu ghép với bệnh khác, tỷ lệ chết cao hơn.
Vịt, ngan bị bệnh thường có triệu chứng như sau:
- Tiêu chảy, phân màu xanh lá cây;
- Ủ rũ, chảy nước mắt, nước mũi, ho nhẹ, hắt hơi;
- Sưng phù đầu, cổ; ngoẹo cổ; mất thăng bằng; Viêm khớp, đi lại khó khăn;
- Hay nằm ngửa, hai chân bơi chèo.
Bệnh tích
Đặc trưng nhất là sự tiết dịch có sợi huyết (fibrin) ở màng bao tim, trên bề mặt gan và viêm túi khí. Khi bệnh mới phát, bao tim trắng đục, sau đó, bao tim có nhiều fibrin, có thể viêm dính màng tim và cơ tim. Các tổn thượng thường kết hợp với những nốt xuất huyết lấm tấm.
Gan, lách có thể sưng to, gan có thể bị bao phủ bởi một lớp fibrin trắng đục và không bám dính vào các cơ quan khác. Phổi sưng huyết và viêm xoang. Vi khuẩn tấn công vào hệ thần kinh trung ương, gây viêm não. Bệnh ở giai đoạn cuối, tất cả các cơ quan nội tạng đều được bao phủ bởi lớp fibrin. Ngoài ra, có thể gặp bệnh tích viêm khớp, viêm da có mủ trên gia cầm bệnh.
Chẩn đoán bệnh
Dựa vào triệu chứng, bệnh tích để chẩn đoán bệnh nhưng dễ nhầm lẫn với một số bệnh như E.coli, viêm đường hô hấp, dịch tả vịt, viêm gan do virus, tụ huyết trùng, nấm... Để chẩn đoán chính xác bệnh, cần xét nghiệm bệnh phẩm trong phòng thí nghiệm bằng phương pháp PCR.
Phòng bệnh
Tăng cường công tác vệ sinh phòng bệnh: Chăn nuôi an toàn sinh học.
Thực hiện tốt 3 nguyên tắc an toàn sinh học, đặc biệt cần đảm bảo cách ly giữa các đàn gia cầm (giữa các đàn, các giống, các lứa tuổi) và với môi trường bên ngoài; vệ sinh môi trường chăn nuôi sạch sẽ, khử trùng định kỳ chuồng nuôi và môi trường xung quanh. Chăn nuôi gia cầm đúng kỹ thuật để gia cầm khỏe mạnh, hạn chế bệnh xảy ra. Thay và kiểm tra chất độn chuồng nhất là trong giai đoạn úm; chất độn chuồng quá cứng, sắc có thể làm tổn thương da chân vịt con. Chăm sóc tốt, thức ăn đủ lượng và chất, cân đối, cấp đủ nước uống. Phát hiện sớm, cách ly và áp dụng các biện pháp thích hợp để điều trị. Thực hiện đúng, đủ quy trình phòng bệnh theo quy định của ngành thú y.
Điều trị
Có thể sử dụng kháng sinh, hóa dược như Ceptiofur hoặc Penicillin kết hợp với Streptomycin hoặc Sulfaquinoxaline; bổ sung vitamin; liều lượng, cách dùng theo khuyến cáo của nhà sản xuất.
Khi hết liệu trình điều trị, cần bổ sung men tiêu hóa hoặc chế phẩm vi sinh hữu ích để cải thiện khả năng tiêu hóa, hấp thu dinh dưỡng, giúp vịt, ngan nhanh bình phục. Kết hợp với việc điều trị bệnh, cần chăm sóc, nuôi dưỡng gia cầm tốt, vệ sinh, khử trùng môi trường để bệnh không tái phát.
Nguồn: Tạp chí Người Chăn nuôi